Notice: Function _load_textdomain_just_in_time was called incorrectly. Translation loading for the rank-math-pro domain was triggered too early. This is usually an indicator for some code in the plugin or theme running too early. Translations should be loaded at the init action or later. Please see Debugging in WordPress for more information. (This message was added in version 6.7.0.) in /www/wwwroot/truyenyy.mobi/wp-includes/functions.php on line 6114
1Q84 (Tập 2) - Chương 12: Tengo : truyenyy.mobi

1Q84 (Tập 2)

Chương 12: Tengo




Những thứ dùng ngón tay đếm không hết

Tengo về đến nhà trước khi trời đổ mưa. Anh rảo chân bước nhanh trên quãng đường từ ga tàu điện về nhà. Bầu trời hoàng hôn vẫn không có một gợn mây đen. Không có điềm báo gì rằng trời sẽ mưa, cũng không có dấu hiệu sẽ sấm sét. Tengo đưa mắt nhìn quanh, không thấy ai cầm ô đi đường. Một buổi tối cuối mùa hè dễ chịu, khiến người ta chỉ muốn đi thẳng đến sân bóng chày mà uống bia tươi. Nhưng, từ nãy anh đã quyết định cứ cho rằng Fukaeri nói gì cũng đều là sự thật. Thà tin còn hơn không tin, Tengo nghĩ. Không phải dựa trên logic, mà căn cứ vào kinh nghiệm.

Anh dòm vào hòm thư, chỉ thấy một bức công vụ không đề tên người gửi. Tengo bóc phong bì ngay tại chỗ. Bên trong là thông báo tài khoản ngân hàng của anh nhận được một triệu sáu trăm hai mươi bảy nghìn năm trăm ba mươi yên. Bên chuyển tiền là Văn phòng ERI. Chắc chắn là công ty ma do Komatsu lập ra. Cũng có thể là thầy giáo Ebisuno. Trước đây Komatsu từng nói sẽ trích một phần tiền bản quyền của Nhộng không khí làm thù lao cho anh, có lẽ đây chính là “một phần” ấy. Về lý do chi, nhất định anh ta đã ghi là “tiền hỗ trợ” hay “phí điều tra”. Tengo xác nhận lại số tiền một lần nữa, rồi bỏ tờ thông báo chuyển tiền vào phong bì, nhét vào túi.

Một triệu sáu trăm nghìn yên với Tengo là một món tiền lớn (trên thực tế, cả đời anh chưa bao giờ nhận được khoản tiền nào lớn như vậy), nhưng anh không vui vẻ, cũng chẳng ngạc nhiên. Trước mắt, tiền bạc không phải là vấn đề quan trọng đối với Tengo. Anh có thu nhập ổn định, đủ để anh sống không đến nỗi túng quẫn. Ít nhất là hiện giờ anh không cảm thấy bất an về tương lai. Thế nhưng người ta vẫn cứ tranh nhau đưa cho anh những khoản tiền lớn. Thật là một thế giới lạ lùng.

Thế nhưng, vì viết lại Nhộng không khí, anh đã bị cuốn vào quá nhiều rắc rối, vậy mà tiền thù lao lại chỉ có một triệu sáu trăm nghìn. Tengo không khỏi cảm thấy thế là lợi bất cập hại. Tuy nói vậy, nhưng giả sử có người hỏi thẳng vào mặt: “Vậy anh nói đi, thù lao phải bao nhiêu mới thích đáng?” Tengo hẳn sẽ không biết trả lời thế nào. Trước tiên, anh không biết liệu có cái giá nào thích đáng cho sự rắc rối mình phải chuốc lấy hay không. Trên đời này hẳn phải có rất nhiều rắc rối không thể định giá hoặc những rắc rối không ai chịu bồi thường. Nhộng không khí hình như vẫn bán rất chạy, tức là sau này sẽ còn có thêm tiền chuyển vào tài khoản. Nhưng số tiền chuyển vào tài khoản càng lớn, sẽ càng có thêm nhiều vấn đề. Thù lao nhận được càng nhiều, mức độ dính líu của Tengo vào vụ Nhộng không khí sẽ càng sâu, như một sự thực không thể chối cãi.

Anh nghĩ hay là sáng mai gửi trả lại số tiền này cho Komatsu. Làm như vậy, có thể anh sẽ tránh được một phần trách nhiệm nào đó, tâm trạng có lẽ cũng thoải mái hơn đôi chút. Dù thế nào đi nữa, việc anh từ chối nhận tiền thù lao sẽ được người ta ghi nhận. Trách nhiệm về mặt đạo lý của anh sẽ không vì vậy mà biến mất, hành vi của anh cũng không vì vậy mà được coi là chính đáng. Thứ duy nhất mà việc này có thể mang đến cho anh chẳng qua chỉ là “tình tiết giảm nhẹ”. Mà cũng có khả năng là, hoàn toàn ngược lại, từ chối nhận thù lao của anh sẽ khiến hành vi của anh càng thêm đáng ngờ. Người ta sẽ nói: chính vì trong lòng cảm thấy tội lỗi nên anh mới trả lại tiền.

Trăn đi trở lại, Tengo bắt đầu thấy nhức đầu. Anh quyết định không nghĩ ngợi về một triệu sáu trăm nghìn yên ấy nữa. Sau này từ từ rồi tính. Tiền không phải là vật sống, để đấy cũng không thể nào mọc chân chạy mất. Có lẽ vậy.

Vấn đề trước mắt của mình là làm sao có bước khởi động cho cuộc đời mới, Tengo nghĩ trong khi leo cầu thang lên tầng ba. Sau chuyến đến mũi cực Nam bán đảo Boso thăm cha, về cơ bản anh đã tin chắc người ấy không phải cha đẻ của mình. Đồng thời anh cũng nhận ra mình đã tiến đến một bước ngoặt lớn trong đời. Đây có lẽ là cơ hội tuyệt vời. Giờ có lẽ là thời điểm thích hợp để cắt đứt với mọi phiền não, xây dựng cuộc sống hoàn toàn mới cho mình. Công việc mới, nơi ở mới, những mối quan hệ hoàn toàn mới. Tuy vẫn chưa hoàn toàn tự tin, song Tengo có dự cảm rằng hẳn mình có thể sống cuộc sống ít nhiều ổn định hơn trước.

Nhưng trước đó vẫn còn nhiều việc cần xử lý. Anh không thể bỏ lại Fukaeri, Komatsu và Thầy giáo Ebisuno để chạy trốn một mình được. Dĩ nhiên, giữa anh và họ vốn chẳng có tình cảm gì sâu đậm, cũng chẳng có trách nhiệm đạo nghĩa gì. Đúng như Ushikawa nói, xét toàn bộ sự việc, Tengo từ đầu chí cuối chỉ là người bị liên lụy. Nhưng cho dù anh có thanh minh rằng mình bị người ta lôi xuống vũng nước đục này và hoàn toàn không biết gì về kế hoạch đằng sau, sự thực vẫn là anh đã lún sâu vào đó. Xét cho cùng, anh chẳng thể nói sau đây có chuyện gì thì cũng chẳng liên quan đến tôi nữa, ai muốn làm gì cứ làm. Bất kể sau này có đi tới đâu, Tengo cũng hy vọng sự việc này có một kết cục, hy vọng có thể tẩy sạch những mối quan hệ cá nhân hiện tại. Bằng không, cuộc sống mới của anh e rằng chỉ vừa mới bắt đầu đã bị nhuốm bẩn rồi.

Hai chữ nhuốm bẩn khiến Tengo chợt nhớ đến Ushikawa. Ushikawa, anh thở dài nghĩ. Ushikawa từng nói anh ta có thông tin về mẹ Tengo, và có thể chia sẻ với anh những thông tin ấy.

Nếu anh muốn biết, chúng tôi có thể trao toàn bộ thông tin về mẹ anh cho anh. Theo tôi biết, hình như anh lớn lên mà hoàn toàn không hề biết gì về mẹ mình thì phải. Chỉ có điều trong đó không chừng có cả một số thông tin không vui vẻ gì đâu.

Tengo thậm chí không buồn trả lời. Trong mọi tình huống anh dứt khoát không muốn nghe tin về mẹ mình từ miệng Ushikawa. Mọi thông tin được nói ra từ cái miệng ấy, bất kể là gì, cũng sẽ trở nên nhơ bẩn. Không, dù từ miệng bất cứ ai, Tengo cũng không muốn nghe những thông tin ấy. Nếu anh nhận được thông tin từ mẹ mình thì đó sẽ không phải những mẩu thông tin vụn vặt rời rạc, mà phải là một “khải thị” trọn vẹn. Nó cần phải rõ ràng và trải rộng, chỉ lướt qua trong nháy mắt là có thể bao quát cả, như một cảnh tượng vũ trụ bao la vậy.

Dĩ nhiên Tengo không thể biết tới khi nào thì sự “khải thị” đầy kịch tính ấy mới đến với mình. Có thể nó sẽ không bao giờ xuất hiện. Thế nhưng, Tengo cần một thứ lớn lao như thế hòng có thể đối kháng lại, thậm chí là áp đảo và bao trùm lên những hình ảnh rõ rệt trong “giấc mộng ban ngày” vẫn làm anh mất hướng, quấy nhiễu và giày vò anh hằng bao năm nay. Anh cần nắm chắc nó, hầu triệt để gột rửa bản thân khỏi những ám ảnh ấy. Những thông tin vụn vặt chẳng có bất cứ tác dụng nào với anh.

Đây là những suy nghĩ vẩn vơ trong đầu Tengo khi anh leo cầu thang lên tầng ba.

Tengo đứng trước cửa nhà, lấy chìa khóa ra từ trong túi áo, cắm vào lỗ khóa, xoay một vòng. Trước khi mở cửa, anh gõ ba tiếng, ngưng lại giây lát, gõ thêm hai tiếng nữa rồi mới nhè nhẹ đẩy cửa ra.

Fukaeri ngồi trước bàn ăn, đang uống nước ép cà chua đựng trong ly cao. Cô vẫn mặc bộ đồ lúc tới đây: sơ mi đàn ông kẻ sọc và quần bò bó màu xanh lam. Nhưng so với lúc sáng, cảm giác của anh khi nhìn cô lúc này rất khác. Đó là bởi… Tengo phải mất một lúc mới nhận ra: cô đã buộc tóc lên cao, để lộ tai và gáy. Đôi tai nhỏ xinh xắn màu phấn hồng trông như được ai đó dùng bàn chải mềm phủ một lớp phấn mỏng, và tựa hồ chỉ vừa mới được tạo ra, không phải để lắng nghe âm thanh trong thế giới hiện thực, mà thuần túy chỉ vì mục đích thẩm mỹ. Ít nhất là Tengo nghĩ như thế. Chiếc cổ thon nhỏ đẹp đẽ giữa đôi tai ấy óng ánh tuyệt đẹp, cơ hồ một cây rau mọc lên dưới ánh mặt trời, hoàn hảo, xứng đôi với những hạt sương sớm và với lũ bọ dừa. Mặc dù đây là lần đầu tiên Tengo thấy Fukaeri bới tóc lên, nhưng với anh hình ảnh ấy không hiểu sao thân thiết và đẹp đẽ một cách diệu kỳ.

Tengo vòng tay đóng cửa lại, nhưng vẫn đứng ở cửa một lúc lâu. Fukaeri chỉ để lộ ra đôi tai và chiếc cổ mà đã khiến anh bấn loạn chẳng khác gì trọn tấm thân lõa lồ của các cô gái khác. Như một nhà thám hiểm vừa phát hiện ra con suối bí mật ngọn nguồn của sông Nile, Tengo nheo mắt nhìn chằm chằm vào Fukaeri, không nói năng gì, bàn tay vẫn nắm chặt quả đấm cửa.

“Em vừa tắm,” cô nói với Tengo đang đứng như trời trồng, giọng nghiêm trang tựa như vừa nhớ ra một chuyện hệ trọng, “Em đã dùng dầu gội và dầu xả của anh.”

Tengo gật đầu, thở hắt ra một hơi, sau cùng cũng buông tay ra khỏi quả đấm cửa, đóng cửa lại. Dầu gội đầu và dầu xả? Anh nhấc chân bước lên trước, rời xa cánh cửa.

“Sau đấy chuông điện thoại có reo không?” Anh hỏi.

“Không reo lần nào cả,” Fukaeri trả lời, đoạn khẽ lắc đầu.

Tengo bước đến bên cửa sổ, vén rèm nhìn ra bên ngoài. Cảnh tượng nhìn từ cửa sổ tầng ba không có thay đổi gì đặc biệt. Không thấy bóng người khả nghi nào, cũng không có chiếc xe nào đáng ngờ đang đỗ. Vẫn như mọi khi, một khu nhà ở tầm thường mờ nhạt, những cảnh tượng tầm thường mờ nhạt trải ra trước mắt. Những cây ven đường cành lá cong queo phủ trên mình một lớp bụi xám. Hàng rào chắn giữa vỉa hè và lòng đường đầy những chỗ hõm sâu. Mấy chiếc xe đạp cũ gỉ sét bị quăng ven đường. Trên tường treo một khẩu hiệu của cảnh sát: “Lái xe khi uống rượu là con đường một chiều dẫn đến tàn đời.” (Chẳng lẽ cảnh sát cũng có bộ phận chuyên môn viết khẩu hiệu?) Một ông già có vẻ lấm la lấm lét dắt theo một con chó lai tạp nhìn hơi đần độn. Một người đàn bà nom ngớ ngẩn lái chiếc xe hơi nhỏ xấu xí. Những sợi dây điện thò thụt mắc từ cây cột xấu xí này sang cột xấu xí khác. Thế giới ngoài kia được định vị ở đâu đó giữa “ngập tràn bi thảm” và “thiếu thốn niềm vui”, và do vô số tiểu thế giới hình trạng khác nhau tụ hợp lại. Cảnh tượng ngoài cửa sổ gợi lên một sự thực như thế.

Mặt khác, trên thế giới này cũng có những cảnh đẹp không thể phủ nhận hay nghi ngờ, như đôi tai và chiếc cổ của Fukaeri. Thật khó mà phán đoán nên tin vào điều gì hơn. Tengo khẽ phát ra một tiếng gừ sâu trong cổ họng, như một con chó lớn đang bối rối, sau đó kéo rèm cửa lại, trở về với tiểu thế giới của riêng anh.

“Thầy giáo Ebisuno có biết em đến đây không?” Tengo hỏi.

Fukaeri lắc đầu. Thầy giáo không biết.

“Em không định báo với ông ấy à?”

Fukaeri lắc đầu. “Không thể liên lạc.”

“Là vì liên lạc rất nguy hiểm?”

“Điện thoại không ngừng bị nghe trộm. Gửi thư có thể không gửi được tới nơi.”

“Chỉ mình anh biết em đang ở đây?”

Fukaeri gật đầu.

“Em có mang quần áo để thay không?”

“Một ít,” Fukaeri nói, liếc mắt nhìn vào chiếc túi vải thô cô đeo lúc đến. Đúng thật, chiếc túi hình như không chứa được nhiều đồ lắm.

“Em không sao đâu,” cô nói.

“Nếu em thấy không sao thì dĩ nhiên anh cũng không có vấn đề gì,” Tengo nói.

Tengo đi vào bếp, đun một ấm nước sôi, bỏ hồng trà vào ấm pha trà.

“Cô bạn của anh sẽ đến đây,” Fukaeri hỏi.

“Cô ấy sẽ không đến nữa,” Tengo trả lời ngắn gọn.

Fukaeri nhìn thẳng vào mặt anh.

“Tạm thời không đến,” Tengo bổ sung.

“Có phải tại em không,” Fukaeri hỏi.

Tengo lắc lắc đầu. “Anh cũng không biết tại ai nữa. Nhưng anh đoán chắc không phải tại em. Có thể là tại anh. Cũng có thể một phần tại cô ấy.”

“Nhưng mà, dù sao thì cô ấy cũng không đến đây nữa.”

“Đúng thế. Cô ấy sẽ không đến đây nữa. Đại khái là vậy. Nên em có thể ở lại đây.”

Fukaeri ngẫm nghĩ một lúc. “Cô ấy có chồng rồi,” cô hỏi.

“Đúng. Có chồng rồi, còn có hai đứa con nữa.”

“Không phải con anh.”

“Dĩ nhiên không phải con anh. Trước khi gặp anh, cô ấy đã có con rồi.”

“Anh yêu cô ấy không.”

“Chắc là có,” Tengo trả lời. Trong một số hoàn cảnh nhất định, anh tự bổ sung.

“Cô ấy yêu anh không.”

“Chắc là có. Ở một mức độ nào đấy.”

“Hai người có giao hop không.”

Tengo phải mất một lúc mới hiểu, giao hop có nghĩa là “giao hợp”. Thật khó mà tưởng tượng Fukaeri lại thốt ra từ này.

“Tất nhiên. Cô ấy đến đây hàng tuần không phải để chơi trò cờ tỷ phú với anh.”

“Cờ tỷ phú,” cô hỏi.

“Không có gì đâu,” Tengo nói.

“Nhưng cô ấy không đến nữa.”

“Ít nhất là người ta bảo anh thế. Rằng có lẽ cô ấy sẽ không đến đây nữa.”

“Không phải cô ấy tự nói với anh,” Fukaeri lại hỏi.

“Không phải, không phải cô ấy trực tiếp nói với anh. Chồng cô ấy nói. Nói rằng cô ấy không còn nữa rồi, và sẽ không đến chỗ anh nữa.”

“Không còn nữa rồi.”

“Anh cũng không hiểu nghĩa chính xác của câu này là gì nữa. Anh hỏi, nhưng anh ta không chịu nói. Anh có rất nhiều câu hỏi, song câu trả lời lại chẳng có mấy. Như kểu mất cân bằng mậu dịch vậy. Em uống trà không?”

Fukaeri gật đầu. Tengo rót nước sôi vào ấm trà, đậy nắp lại, đợi.

“Hết cách.”

“Ý em chỉ có rất ít câu trả lời? Hay là cô ấy không còn nữa rồi?”

Fukaeri không trả lời.

Tengo thôi không hỏi nữa, rót trà vào hai chiếc tách. “Cho đường không?”

“Một thìa nhỏ,” Fukaeri trả lời.

“Có thêm chanh hay sữa không?”

Fukaeri lắc đầu. Tengo múc một thìa đường cho vào tách, ngoáy chầm chậm, sau đó đặt trước mặt cô gái. Anh không bỏ thêm gì vào tách của mình, bưng chén lên ngồi xuống đối diện với cô.

“Anh thích giao hợp,” Fukaeri hỏi.

“Thích giao hợp với bạn gái không à?” Tengo đổi lại thành câu nghi vấn thông thường.

Fukaeri gật đầu.

“Anh nghĩ là có,” Tengo nói, “Giao hợp với người khác giới mà mình có cảm tình. Đại đa số mọi người đều thích.”

Vả lại, anh nghĩ thầm trong bụng, cô ấy rất giỏi món này. Giống như ở làng nào cũng có một bác nông dân giỏi việc tưới tiêu vậy, cô ấy rất giỏi việc giao hợp, lại thích thử các kiểu khác nhau.

“Cô ấy không đến, anh có cô đơn không?” Fukaeri hỏi.

“Chắc là có,” Tengo trả lời, khẽ nhấp một ngụm trà.

“Vì không thể giao hợp.”

“Đó cũng là một nguyên nhân.”

Fukaeri nhìn thẳng vào mặt Tengo một lúc. Có vẻ như cô đang nghĩ về chuyện giao hợp. Nhưng không cần phải nói, chẳng ai biết được trong đầu cô rốt cuộc đang nghĩ gì.

“Đói bụng không?” Tengo hỏi.

Fukaeri gật đầu. “Từ sáng đến giờ gần như chưa ăn gì.”

“Anh đi nấu cơm,” Tengo nói. Bản thân anh cũng gần như chưa ăn gì từ sáng, bụng đói cồn cào. Còn một lý do nữa: ngoại trừ nấu cơm, tạm thời anh chưa nghĩ ra nên làm việc gì khác.

Tengo vo gạo, cho vào nồi cơm điện và nhấn nút. Trong lúc chờ cơm chín, anh làm món súp miso với tảo biển wakame và hành lá, nướng cá thu khô, lấy đậu phụ trong tủ lạnh ra ướp tương gừng. Anh còn mài một ít tương hạt cải, và lấy nồi hầm lại ít rau còn thừa từ hôm trước. Để ăn chung với cơm, anh lấy thêm một lát củ cải và quả mơ khô. Với thân hình cao to của Tengo quay tới quay lui, căn bếp vốn đã nhỏ hẹp trông càng chật chội hơn, nhưng anh không cảm thấy bất tiện chút nào. Từ bao lâu nay anh đã quen với việc sống với những gì mình đang có rồi.

“Xin lỗi, anh chỉ biết làm mấy món đơn giản này thôi,” Tengo nói.

Fukaeri chăm chú quan sát tỉ mỉ những động tác thành thạo của Tengo trong nhà bếp, rồi đưa mắt hưng phấn nhìn thành quả lao động bày ngay ngắn trên bàn, đoạn nói: “Anh biết nấu ăn.”

“Bao năm nay anh luôn sống độc thân. Một mình nấu qua loa cho nhanh, rồi một mình ăn qua loa. Quen rồi.”

“Anh toàn ăn cơm một mình.”

“Gần như thế. Hiếm có dịp nào ngồi đối diện với ai đó cùng ăn cơm thế này. Anh và người phụ nữ kia cứ mỗi tuần một lần cùng ăn cơm trưa ở đây. Nhưng nghĩ lại thì cũng lâu lắm rồi anh chưa ăn cơm tối cùng ai cả.”

“Căng thẳng không,” Fukaeri hỏi.

Tengo lắc đầu. “Không. Không cảm thấy căng thẳng. Chẳng qua chỉ là một bữa cơm. Chỉ là cảm thấy hơi là lạ.”

“Em toàn ăn cơm với rất nhiều người. Vì từ nhỏ em đã ở chung với mọi người rồi. Đến nhà Thầy giáo cũng ăn chung với nhiều người. Nhà Thầy giáo lúc nào cũng có khách.”

Đây là lần đầu tiên Fukaeri nói một mạch nhiều câu như thế.

“Nhưng ở chỗ ẩn náu em luôn ăn cơm một mình chứ nhỉ?”

Fukaeri gật đầu.

“Chỗ mà em ẩn náu ấy, nó ở đâu?” Tengo hỏi.

“Xa lắm. Thầy giáo chuẩn bị cho em.”

“Thế ở một mình thì em ăn gì?”

“Đồ ăn liền. Đóng vào túi,” Fukaeri đáp, “Em không ăn cơm kiểu này lâu lắm rồi.”

Fukaeri điềm đạm chậm rãi lấy đũa gỡ xương cá thu, đưa lên miệng, từ từ nhai một lúc lâu, như thể đó là một món ngon vô cùng vậy. Kế đó cô hớp một ngụm súp miso, nhấm nháp mùi vị, suy đoán gì đó, rồi đặt đũa xuống bàn và bắt đầu trầm tư.

Gần chín giờ tối, đằng xa dường như vang lên tiếng sấm yếu ớt. Tengo kéo rèm hé nhìn ra bên ngoài, chỉ thấy bầu trời đã chuyển thành đen như mực, những đám mây hình dạng chẳng lành không ngừng trôi qua.

“Em nói đúng. Thời tiết đang trở nên xấu lắm,” Tengo đóng rèm cửa lại, nói.

“Vì Người Tí Hon đang náo loạn,” Fukaeri nghiêm túc nói.

“Người Tí Hon mà náo loạn thì thời tiết liền xảy ra những biến đổi khác thường à?”

“Tùy tình hình. Vì thời tiết xét cho cùng là vấn đề anh lý giải như thế nào.”

“Vấn đề anh lý giải như thế nào?”

Fukaeri lắc đầu. “Em không rõ lắm.”

Tengo cũng không hiểu. Anh cảm thấy thời tiết xét cho cùng là một hiện tượng khách quan độc lập. Có điều, nếu tiếp tục quy vấn theo hướng này thì e không đi đến được kết luận nào. Anh quyết định hỏi câu khác.

“Người Tí Hon đang nổi giận vì chuyện gì thế?”

“Sắp xảy ra chuyện rồi,” cô gái nói. Fukaeri lắc đầu. “Đến lúc ấy sẽ biết.”

Họ cùng rửa bát đĩa ở bồn rửa bát, lau khô rồi cất lên chạn bếp, sau đó ra bàn ngồi đối diện nhau uống trà. Tengo định uống bia, nhưng rồi cảm thấy ngày hôm nay tốt nhất là nên tránh chất cồn. Anh cảm nhận được một thoáng bất an trong bầu không khí xung quanh, và nghĩ cần cố gắng giữ cho mình càng tỉnh táo càng tốt, phòng có chuyện xảy ra.

“Tốt nhất là đi ngủ sớm,” Fukaeri nói. Hai tay cô áp lên má, như thể người hét trên cầu trong bức tranh của Munch[1]. Nhưng cô không hét lên, mà chỉ buồn ngủ.

[1] Edvard Munch (1863-1944), họa sĩ người Na Uy, tác phẩm tiêu biểu nhất có lẽ là bức tranh Tiếng thét được nhắc đến ở đây.

“Được rồi. Em ngủ trên giường. Anh ngủ trên sofa, giống lần trước,” Tengo nói. “Em không cần ngại, anh nằm đâu cũng ngủ được hết.”

Đấy là sự thật. Dù ở chỗ nào, Tengo cũng có thể ngủ ngay lập tức. Đây thậm chí có thể gọi là một thứ tài năng.

Fukaeri chỉ gật đầu. Cô nhìn chằm chằm vào mặt Tengo một lúc, không đưa ra ý kiến nào. Sau đó cô sờ nhanh lên đôi tai xinh đẹp vừa mới được tạo ra kia, như thể xác nhận lại đôi tai có còn ở đó hay không. “Cho em mượn đồ ngủ được không. Em không mang theo.”

Tengo lấy bộ pyjama dự phòng trong ngăn kéo tủ quần áo ra đưa cho Fukaeri. Chính là bộ pyjama anh cho cô mượn khi cô qua đêm tại đây lần trước. Vải bông màu xanh, không có hoa văn, được giặt sạch và gấp để đó đến giờ. Tengo còn cẩn thận đưa lên mũi ngửi thử, nhưng không có mùi gì. Fukaeri đón lấy bộ pyjama đi vào phòng tắm thay, rồi trở lại trước bàn ăn. Mái tóc cô đã buông xuống. Giống như lần trước, ống tay và ống chân bộ pyjama đều được xắn lên cao.

“Vẫn chưa đến chín giờ,” Tengo liếc nhìn đồng hồ treo tường, nói. “Em luôn ngủ sớm thế này à?”

Fukaeri lắc đầu. “Hôm nay đặc biệt.”

“Là vì Người Tí Hon đang náo loạn bên ngoài kia ư?”

“Không rõ. Giờ em chỉ thấy buồn ngủ thôi.”

“Trông em đúng là có vẻ buồn ngủ rồi,” Tengo thừa nhận.

“Lúc vào giường, anh có thể đọc sách hay kể chuyện cho em nghe không.” Fukaeri hỏi.

“Được chứ,” Tengo nói, “Dù sao anh cũng không có việc gì để làm.”

Đó là một tối mùa hè ẩm, oi bức, nhưng vừa lên giường Fukaeri đã kéo chăm trùm tận cổ, tựa như muốn dựng một hàng rào ngăn cách giữa thế giới bên ngoài và thế giới của cô. Không hiểu sao, khi chui vào trong chăn, trông cô chỉ như một đứa nhỏ chưa đến mười hai tuổi. Tiếng sấm ngoài cửa sổ giờ đã vang rền hơn trước, xem ra bắt đầu có sét ở đâu đó quanh đây. Mỗi lần có tiếng sấm, ô cửa kính lại rung lên lách cách. Lạ một điều, không thấy ánh chớp nào lóe lên. Tiếng sấm vang khắp bầu trời đêm tối đen như mực, nhưng không có dấu hiệu gì của một cơn mưa. Ở đây đích thực có tồn tại sự mất cân bằng nào đó.

“Họ đang quan sát chúng ta,” Fukaeri nói.

“Ý em là Người Tí Hon hả?” Tengo hỏi.

Fukaeri không trả lời câu hỏi của anh.

“Họ biết chúng ta ở đây,” Tengo nói.

“Đương nhiên biết,” Fukaeri nói.

“Họ định làm gì chúng ta?”

“Họ chẳng làm gì được chúng ta.”

“Vậy thì tốt quá,” Tengo nói.

“Tạm thời.”

“Tạm thời họ chưa ra tay với chúng ta được,” Tengo uể oải lặp lại, “Nhưng không biết tình trạng này có thể kéo dài bao lâu.”

“Không ai biết cả,” Fukaeri trả lời dứt khoát.

“Nhưng, tuy họ không thể làm gì chúng ta, song họ lại có thể ra tay với những người xung quanh chúng ta?” Tengo hỏi.

“Rất có khả năng.”

“Có lẽ họ sẽ làm tổn thương những người đó.”

Fukaeri nheo mắt lại với vẻ cực kỳ nghiêm trang, như người thủy thủ đang cố nghe ra tiếng hát của những bóng ma trên biển, hồi lâu sau mới nói: “Còn tùy tình hình.”

“Có lẽ Người Tí Hon đã sử dụng sức mạnh của họ với bạn gái anh. Để cảnh cáo anh.”

Fukaeri thò tay ra khỏi cái ổ chăn, gãi gãi cái tai vừa mới được làm ra của mình. Sau đó bàn tay ấy lại rụt vào trong chăn. “Người Tí Hon chỉ có thể làm một số việc thôi.”

Tengo khẽ cắn môi, nói: “Ví dụ xem, chính xác họ có thể làm những gì?”

Fukaeri định nói ra gì đó, nhưng nghĩ sao lại thôi. Ý nghĩ ấy của cô chưa được thốt ra khỏi miệng thì đã chìm xuống lại nơi nó nảy sinh ra, một nơi không ai biết, sâu, tăm tối.

“Em từng nói Người Tí Hon có trí tuệ và sức mạnh.”

Fukaeri gật đầu.

“Nhưng họ cũng bị giới hạn.”

Fukaeri gật đầu.

“Vì họ là người sống trong rừng. Rời khỏi rừng rậm, họ sẽ không thể hoàn toàn phát huy được năng lực của mình. Vả lại, trên thế gian này có một thứ kiểu như là những giá trị có thể giúp người ta đối kháng lại với trí tuệ và sức mạnh của họ. Có phải vậy không?”

Fukaeri không trả lời anh. Có lẽ tại câu hỏi này dài quá.

“Em gặp Người Tí Hon rồi à?” Tengo hỏi tiếp.

Fukaeri nhìn mông lung vào Tengo, tựa như không nắm được dụng ý câu hỏi của anh.

“Em đã bao giờ tận mắt nhìn thấy họ chưa?” Tengo hỏi lại.

“Nhìn thấy rồi,” Fukaeri trả lời.

“Em trông thấy mấy Người Tí Hon?”

“Không biết. Vì dùng ngón tay đếm không hết.”

“Nhưng không chỉ một.”

“Có lúc tăng có lúc giảm. Nhưng không bao giờ chỉ có một người.”

“Giống như em miêu tả trong Nhộng không khí vậy.”

Fukaeri gật đầu.

Tengo buột miệng hỏi ra một vấn đề anh đã muốn hỏi từ rất lâu:

“Cho anh biết, trong Nhộng không khí rốt cuộc có bao nhiêu phần là chân thực?”

“Chân thực nghĩa là gì,” Fukaeri hỏi, không có dấu chấm hỏi.

Tengo không có câu trả lời, đương nhiên.

Một tiếng sấm lớn vang lên giữa trời. Ô cửa sổ bằng kính rung lên bần bật. Nhưng vẫn không có tia chớp nào lóe lên, cũng không nghe tiếng mưa. Tengo nhớ lại hồi trước từng xem một bộ phim về tàu ngầm. Bom chống tàu ngầm nổ hết quả này đến quả khác, khiến con tàu lắc lư dữ dội, nhưng mọi người bị nhốt trong cái hòm sắt tăm tối đó không thấy gì cả. Họ chỉ có thể cảm nhận thấy những tiếng nổ và chấn động liên tu bất tận mà thôi.

“Đọc sách hay kể chuyện cho em, được không,” Fukaeri hỏi.

“Được chứ,” Tengo nói, “Nhưng anh không nghĩ ra được quyển sách nào thích hợp để đọc to thành tiếng cả. Nếu em thấy chuyện ‘Thành phố mèo’ là được, anh có thể kể cho em nghe. Tuy rằng anh không có cuốn sách ở đây.”

“Thành phố mèo.”

“Câu chuyện về một thành phố nhỏ do lũ mèo thống trị.”

“Em muốn nghe.”

“Trước khi ngủ mà nghe chuyện này thì có lẽ hơi sợ đấy.”

“Không sao. Anh kể chuyện gì em cũng ngủ được.”

Tengo kéo ghế lại bên cạnh giường, ngồi xuống, hai tay đặt trên đầu gối, ngón tay đan vào nhau, bắt đầu kể câu chuyện “Thành phố mèo”, với âm thanh nền là tiếng sấm. Anh đã đọc truyện này hai lần trên tàu tốc hành, và một lần đọc thành tiếng trong phòng bệnh của cha, nên nội dung tình tiết đã in vào trong óc. Câu chuyện không lấy gì làm phức tạp, văn phong cũng không thể gọi là tinh vi hoa mỹ, vì vậy anh không ngại ngần cải biên đi một chút cho thích hợp. Anh cắt bỏ những chỗ rườm rà, thêm vào một số đoạn nhỏ xen giữa vừa chợt nghĩ ra trong khi kể chuyện cho Fukaeri nghe.

Câu chuyện vốn không dài, nhưng kể hết lại tốn nhiều thời gian hơn anh nghĩ. Vì Fukaeri cứ có thắc mắc là hỏi ngay, và lần nào Tengo cũng ngừng kể, trả lời tỉ mỉ từng câu hỏi một. Anh lần lượt giải thích chi tiết về thành phố nhỏ ấy, về hành động của lũ mèo, tính cách của nhân vật chính. Nếu là những thứ vốn không có trong sách (mà hầu hết là thế) thì anh tự bịa ra, giống như lúc viết lại Nhộng không khí. Fukaeri dường như đã hoàn toàn đắm chìm trong chuyện “Thành phố mèo”, trông chẳng có vẻ gì là buồn ngủ nữa. Thi thoảng Fukaeri nhắm mắt lại, tưởng tượng ra phong cảnh thành phố mèo trong óc. Sau đó cô mở mắt, giục Tengo kể tiếp.

Khi anh kể hết câu chuyện, Fukaeri mở to mắt, nhìn thẳng vào Tengo một lúc, như con mèo đang mở rộng đồng tử ra hết mức, nhìn chằm chằm vào vật thể gì đó trong bóng tối.

“Anh đã đến thành phố mèo,” cô nói với giọng như đang trách móc Tengo.

“Anh hả?”

“Anh đã đến thành phố mèo của anh. Và còn ngồi tàu trở về nữa.”

“Em cảm thấy thế à?”

Fukaeri kéo tấm chăn mùa hè lên tận cằm, gật đầu nhanh.

“Em nói đúng,” Tengo đáp, “Anh đã đến thành phố mèo, rồi ngồi tàu trở về.”

“Anh đã trừ tà chưa,” cô hỏi.

“Trừ tà?” Tengo hỏi. Trừ tà? “Anh nghĩ là chưa.”

“Không trừ tà không được đâu.”

“Trừ tà gì?”

Fukaeri không trả lời. “Đến thành phố mèo trở về mà cứ để thế không làm gì thì sẽ có chuyện chẳng lành.”

Một tiếng sấm lớn vang lên, tựa hồ như muốn xé đôi bầu trời. Âm thanh mỗi lúc một dữ dội hơn. Fukaeri rúc mình trong chăn.

“Anh qua ngủ chung với em đi,” Fukaeri nói, “Hai chúng ta phải cùng đi đến thành phố mèo.”

“Tại sao?”

“Người Tí Hon có thể sẽ tìm thấy lối vào.”

“Vì anh chưa trừ tà à?”

“Vì hai chúng ta là một,” cô gái nói.


Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.